(1)Tổng quan về thị trường ete cellulose không ion toàn cầu:
Theo quan điểm phân bổ năng lực sản xuất toàn cầu, 43% tổng sản lượng toàn cầuete xenlulozasản lượng năm 2018 đến từ Châu Á (Trung Quốc chiếm 79% sản lượng Châu Á), Tây Âu chiếm 36% và Bắc Mỹ chiếm 8%. Xét theo góc độ nhu cầu ether cellulose toàn cầu, lượng tiêu thụ ether cellulose toàn cầu năm 2018 là khoảng 1,1 triệu tấn. Từ năm 2018 đến năm 2023, lượng tiêu thụ ether cellulose sẽ tăng trưởng với tốc độ trung bình hàng năm là 2,9%.
Gần một nửa tổng lượng tiêu thụ ete cellulose toàn cầu là cellulose ion (được biểu thị bằng CMC), chủ yếu được sử dụng trong chất tẩy rửa, phụ gia dầu mỏ và phụ gia thực phẩm; khoảng một phần ba là methyl cellulose không ion và các chất dẫn xuất của nó (được biểu thị bằngHPMC), và một phần sáu còn lại là hydroxyethyl cellulose và các dẫn xuất của nó và các ete cellulose khác. Sự tăng trưởng nhu cầu về ete cellulose không ion chủ yếu được thúc đẩy bởi các ứng dụng trong lĩnh vực vật liệu xây dựng, sơn phủ, thực phẩm, thuốc men và hóa chất hàng ngày. Theo quan điểm phân phối khu vực của thị trường tiêu dùng, thị trường Châu Á là thị trường tăng trưởng nhanh nhất. Từ năm 2014 đến năm 2019, tốc độ tăng trưởng kép hàng năm của nhu cầu về ete cellulose ở Châu Á đạt 8,24%. Trong số đó, nhu cầu chính ở Châu Á đến từ Trung Quốc, chiếm 23% tổng nhu cầu toàn cầu.
(2)Tổng quan về thị trường ete cellulose không ion trong nước:
Ở Trung Quốc, ete cellulose ion được biểu diễn bằngCMCphát triển sớm hơn, hình thành nên quy trình sản xuất tương đối trưởng thành và năng lực sản xuất lớn. Theo số liệu của IHS, các nhà sản xuất Trung Quốc đã chiếm gần một nửa năng lực sản xuất toàn cầu của các sản phẩm CMC cơ bản. Việc phát triển ete cellulose không ion bắt đầu tương đối muộn ở nước tôi, nhưng tốc độ phát triển rất nhanh.
Theo số liệu của Hiệp hội Công nghiệp Cellulose Trung Quốc, năng lực sản xuất, sản lượng và doanh số bán ete cellulose không ion của các doanh nghiệp trong nước tại Trung Quốc từ năm 2019 đến năm 2021 như sau:
Pdự án | 2021 | 2020 | 2019 | ||||||
Pnăng lực sản xuất | Năng suất | Việc bán hàng | Pnăng lực sản xuất | Năng suất | Việc bán hàng | Pnăng lực sản xuất | Năng suất | Việc bán hàng | |
Valué | 28.39 | 17,25 | 16,54 | 19.05 | 16.27 | 16.22 | 14,38 | 13,57 | 13.19 |
Tăng trưởng theo năm | 49,03% | 5,96% | 1,99% | 32,48% | 19,93% | 22,99% | - | - | - |
Sau nhiều năm phát triển, thị trường ete cellulose không ion của Trung Quốc đã có những tiến bộ vượt bậc. Năm 2021, công suất sản xuất thiết kế của HPMC cấp vật liệu xây dựng sẽ đạt 117.600 tấn, sản lượng sẽ là 104.300 tấn và khối lượng bán ra sẽ là 97.500 tấn. Quy mô công nghiệp lớn và lợi thế nội địa hóa về cơ bản đã hiện thực hóa việc thay thế trong nước. Tuy nhiên, đối với các sản phẩm HEC, do hoạt động R&D và sản xuất ở nước tôi bắt đầu muộn, quy trình sản xuất phức tạp và rào cản kỹ thuật tương đối cao nên năng lực sản xuất, sản lượng và khối lượng bán ra hiện tại của các sản phẩm HEC trong nước tương đối nhỏ. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, khi các doanh nghiệp trong nước tiếp tục tăng cường đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, nâng cao trình độ công nghệ và tích cực phát triển khách hàng hạ nguồn, sản lượng và doanh số đã tăng trưởng nhanh chóng. Theo số liệu của Hiệp hội Công nghiệp Cellulose Trung Quốc, năm 2021, các doanh nghiệp lớn trong nước HEC (có trong thống kê của hiệp hội ngành, đa năng) có công suất sản xuất thiết kế là 19.000 tấn, sản lượng là 17.300 tấn, khối lượng bán hàng là 16.800 tấn. Trong đó, năng lực sản xuất tăng 72,73% so với năm 2020, sản lượng tăng 43,41% so với năm trước, khối lượng bán hàng tăng 40,60% so với năm trước.
Là một chất phụ gia, khối lượng bán hàng của HEC bị ảnh hưởng rất nhiều bởi nhu cầu thị trường hạ nguồn. Là lĩnh vực ứng dụng quan trọng nhất của HEC, ngành công nghiệp sơn có mối tương quan tích cực mạnh mẽ với ngành công nghiệp HEC về mặt sản lượng và phân phối thị trường. Theo quan điểm phân phối thị trường, thị trường ngành công nghiệp sơn chủ yếu phân phối ở Giang Tô, Chiết Giang và Thượng Hải ở miền Đông Trung Quốc, Quảng Đông ở miền Nam Trung Quốc, bờ biển đông nam và Tứ Xuyên ở Tây Nam Trung Quốc. Trong số đó, sản lượng sơn ở Giang Tô, Chiết Giang, Thượng Hải và Phúc Kiến chiếm khoảng 32%, và ở Nam Trung Quốc và Quảng Đông chiếm khoảng 20%. 5 ở trên. Thị trường sản phẩm HEC cũng chủ yếu tập trung ở Giang Tô, Chiết Giang, Thượng Hải, Quảng Đông và Phúc Kiến. HEC hiện chủ yếu được sử dụng trong sơn kiến trúc, nhưng nó phù hợp với tất cả các loại sơn gốc nước về mặt thuộc tính sản phẩm của nó.
Năm 2021, tổng sản lượng sơn hàng năm của Trung Quốc dự kiến đạt khoảng 25,82 triệu tấn, sản lượng sơn kiến trúc và sơn công nghiệp lần lượt là 7,51 triệu tấn và 18,31 triệu tấn6. Sơn gốc nước hiện chiếm khoảng 90% sơn kiến trúc, và chiếm khoảng 25%, ước tính sản lượng sơn gốc nước của nước tôi năm 2021 sẽ đạt khoảng 11,3365 triệu tấn. Về mặt lý thuyết, lượng HEC được thêm vào sơn gốc nước là 0,1% đến 0,5%, tính trung bình là 0,3%, giả sử tất cả các loại sơn gốc nước đều sử dụng HEC làm phụ gia, nhu cầu sơn HEC cấp quốc gia là khoảng 34.000 tấn. Dựa trên tổng sản lượng sơn toàn cầu là 97,6 triệu tấn vào năm 2020 (trong đó sơn kiến trúc chiếm 58,20% và sơn công nghiệp chiếm 41,80%), nhu cầu toàn cầu về sơn cấp HEC ước tính vào khoảng 184.000 tấn.
Tóm lại, hiện nay, thị phần sơn HEC của các nhà sản xuất trong nước tại Trung Quốc vẫn còn thấp, thị phần trong nước chủ yếu do các nhà sản xuất quốc tế đại diện là Ashland của Hoa Kỳ chiếm giữ, còn nhiều không gian để thay thế trong nước. Với việc cải thiện chất lượng sản phẩm HEC trong nước và mở rộng năng lực sản xuất, sẽ tiếp tục cạnh tranh với các nhà sản xuất quốc tế trong lĩnh vực hạ nguồn đại diện là sơn. Thay thế trong nước và cạnh tranh thị trường quốc tế sẽ trở thành xu hướng phát triển chính của ngành này trong một thời gian nhất định trong tương lai.
MHEC chủ yếu được sử dụng trong lĩnh vực vật liệu xây dựng. Nó thường được sử dụng trong vữa xi măng để cải thiện khả năng giữ nước, kéo dài thời gian đông kết của vữa xi măng, giảm cường độ uốn và cường độ nén, và tăng cường độ kéo liên kết. Do điểm gel của loại sản phẩm này, nó ít được sử dụng trong lĩnh vực sơn phủ và chủ yếu cạnh tranh với HPMC trong lĩnh vực vật liệu xây dựng. MHEC có điểm gel, nhưng cao hơn HPMC và khi hàm lượng hydroxy ethoxy tăng lên, điểm gel của nó di chuyển theo hướng nhiệt độ cao. Nếu được sử dụng trong vữa trộn, nó có lợi cho việc trì hoãn phản ứng điện hóa khối xi măng ở nhiệt độ cao, tăng tỷ lệ giữ nước và cường độ liên kết kéo của vữa và các hiệu ứng khác.
Quy mô đầu tư của ngành xây dựng, diện tích xây dựng bất động sản, diện tích hoàn thiện, diện tích trang trí nhà, diện tích cải tạo nhà cũ và những thay đổi của chúng là những yếu tố chính ảnh hưởng đến nhu cầu về MHEC tại thị trường trong nước. Từ năm 2021, do tác động của dịch viêm phổi cấp do virus corona mới, quy định chính sách bất động sản và rủi ro thanh khoản của các công ty bất động sản, sự thịnh vượng của ngành bất động sản Trung Quốc đã giảm sút, nhưng ngành bất động sản vẫn là ngành quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của Trung Quốc. Theo các nguyên tắc chung là “kiềm chế”, “kiềm chế nhu cầu phi lý”, “ổn định giá đất, ổn định giá nhà và ổn định kỳ vọng”, nhấn mạnh vào việc tập trung điều chỉnh cơ cấu cung ứng trung và dài hạn, đồng thời duy trì tính liên tục, ổn định và nhất quán của các chính sách quản lý, đồng thời cải thiện thị trường bất động sản dài hạn. Cơ chế quản lý hiệu quả để đảm bảo thị trường bất động sản phát triển lâu dài, ổn định và lành mạnh. Trong tương lai, sự phát triển của ngành bất động sản sẽ có xu hướng phát triển chất lượng cao hơn với chất lượng cao hơn và tốc độ thấp hơn. Do đó, sự suy giảm thịnh vượng hiện nay của ngành bất động sản là do sự điều chỉnh theo từng giai đoạn của ngành trong quá trình bước vào quá trình phát triển lành mạnh, và ngành bất động sản vẫn còn nhiều dư địa phát triển trong tương lai. Đồng thời, theo “Kế hoạch 5 năm lần thứ 14 về Phát triển kinh tế - xã hội quốc gia và Mục tiêu dài hạn đến năm 2035”, đề xuất thay đổi phương thức phát triển đô thị, bao gồm đẩy nhanh quá trình đổi mới đô thị, cải tạo và nâng cấp các khu dân cư cũ, nhà máy cũ, chức năng cũ của các khu vực chứng khoán như khu nhà cũ và làng đô thị, đồng thời thúc đẩy việc cải tạo các tòa nhà cũ và các mục tiêu khác. Sự gia tăng nhu cầu về vật liệu xây dựng trong việc cải tạo nhà cũ cũng là một hướng quan trọng để mở rộng không gian thị trường MHEC trong tương lai.
Theo số liệu thống kê của Hiệp hội Công nghiệp Cellulose Trung Quốc, từ năm 2019 đến năm 2021, sản lượng MHEC của các doanh nghiệp trong nước lần lượt là 34.652 tấn, 34.150 tấn và 20.194 tấn, khối lượng bán ra lần lượt là 32.531 tấn, 33.570 tấn và 20.411 tấn, cho thấy xu hướng chung là giảm. Nguyên nhân chính làMHECvà HPMC có chức năng tương tự, và chủ yếu được sử dụng cho vật liệu xây dựng như vữa. Tuy nhiên, chi phí và giá bán của MHEC cao hơnHPMC. Trong bối cảnh năng lực sản xuất HPMC trong nước liên tục tăng trưởng, nhu cầu thị trường đối với MHEC đã giảm. Năm 2019 Đến năm 2021, so sánh giữa sản lượng MHEC và HPMC, khối lượng bán ra, giá trung bình, v.v. như sau:
Dự án | 2021 | 2020 | 2019 | ||||||
Năng suất | Việc bán hàng | giá đơn vị | Năng suất | Việc bán hàng | giá đơn vị | Năng suất | Việc bán hàng | giá đơn vị | |
HPMC (cấp vật liệu xây dựng) | 104,337 | 97,487 | 2,82 | 91,250 | 91,100 | 2,53 | 64,786 | 63,469 | 2,83 |
MHEC | 20,194 | 20.411 | 3,98 | 34,150 | 33.570 | 2,80 | 34,652 | 32,531 | 2,83 |
Tổng cộng | 124,531 | 117,898 | - | 125,400 | 124,670 | - | 99,438 | 96.000 | - |
Thời gian đăng: 25-04-2024